một đám cưới nam cao

Ngày 14/3, Minh Hằng thông báo nhận lời cầu hôn của bạn trai sau 6 năm hẹn hò. Đại diện của Minh Hằng xác nhận với Zing nữ ca sĩ kết hôn vào tháng 6. Đại diện cho biết chồng sắp cưới của Minh Hằng là một doanh nhân. Nữ ca sĩ tâm sự cô từng hứa với bạn trai kết hôn - Nam Cao là nhà văn hiện thực xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại. - Một đám cưới (Nam Cao) là áng văn chân thực lột tả thân phận rẻ rúng của người nông dân Việt Nam trong xã hội thực dân nửa phong kiến. - Đoạn trích khắc họa đậm nét cuộc đời, số phận cũng như vẻ đẹp nhân cách của người nông dân trước Cách mạng tháng Tám. Mv ca khúc chờ ngày cưới em Sau những thành công của các ca khúc rầm rộ trên mạng xã hội như Cưa là đổ, Yêu là cưới, nam ca sĩ trẻ Phát Hồ mới đây đã cho ra mắt một ca khúc mới mang tên "Chờ ngày cưới em" kết hợp song ca với nữ ca sỹ Hương Ly. Lyric của bài hát có giai điệu bắt tai, vui tươi, sôi động và những ca từ đậm chất của miền tây. 3 PHONG CÁCH VEST NAM ĐANG THỐNG TRỊ LÀNG THỜI TRANG. Theo giới mộ điệu thời trang, các bộ vest được cho là vest nam đẹp nhất và đầy sự tinh tế. Phải đòi hỏi sự tỉ mỉ và hài hòa về màu sắc, chất liệu cũng như các phụ kiện đi kèm cao cấp, chất lượng. Hiện nay, trên 2. Vest nam Vest dường như là lựa chọn đầu tiên mọi chàng trai nghĩ đến mỗi khi chuẩn bị lên đồ theo cách phối đồ dự tiệc cho nam bởi sự sang trọng và lịch sự mà nó mang lại. Vest được coi như sinh ra để dành cho các bữa tiệc, nó đặc biệt phù hợp cho các dịp như tiệc cưới ở các nhà trung tâm tiệc cưới cao cấp, tiệc tất niên công ty hay prom. Leute Aus Der Umgebung Kennenlernen App. Dần thức dậy thì trong nhà còn tối om om. êm tháng chạp, trời lâu sáng. Thật ra thì gà gáy đã lâu. Tiếng gà gáy xôn xao. Và óc Dần còn lưởng vưởng một ý nhớ mơ hồ, giống như khi người ta nhớ lại những chốn mình đã qua trong một giấc chiêm bao Dần chưa tỉnh hẳn ra, Dần đã thấy những tiếng gà gáy rất mong manh, rất xa xôi vẩn lên trong giấc ngủ nửa mê nửa tỉnh. Rồi thì Dần tỉnh hẳn. Có lẽ do một tiếng gáy cộc lốc của anh gà trụi trong chuồng gà nhà bên cạnh. Con gà đang ở thời kỳ tập gáy, tiếng gáy ngắn nhưng đã vang động lắm. ấy là một con gà có sức. Dần phác lại trong tưởng tượng cái hình dung lộc ngộc của nó, lấc cấc và vụng dại như một anh con trai mười sáu tuổi, đôi chân cao, cái cổ trần ngất nghểu, cái mào đỏ khè mới hơi nhu nhú, cái đuôi cụt ngủn. Anh chàng rất hay sang nhà nó tãi gio, tãi rác, khiến nó bực mình đã mấy lần toan vụt nhỏm dậy. Nó sờ soạng ra khỏi cái ổ rơm rồi đi thẳng ra ngoài. Bên ngoài mịt mù sương. Khí lạnh sắc như dao. Dần rùng mình và hắt hơi mấy cái luôn. Nó thấy cần phải động đậy ngay, cần phải làm ngay một việc gì cho nóng người đã rét mà lại còn đứng co ro thì chỉ càng tổ rét. Nó mải mốt vơ lấy cái chổi để quét sân, quét ngõ. Việc quét tước ấy chẳng sáng nào nó quên làm, dù sân nhà có bẩn hay không. Ấy là một thói quen cũng như cái thói quen dậy từ lúc hãy còn đêm. Nết chăm chỉ ấy, nó học được mấy năm đi đi ở từ năm chửa mười hai. Khi ấy, đầu nó còn để hai cái trái đào. Nó mới biết cầm vững cái chổi để quét nhà và thổi một niêu cơm con con không sống, không khê. Mẹ nó vốn nghèo từ trong trứng nghèo ra, nên hay liệu, hay lo. Thị nghĩ rằng Con mình đã lớn rồi, phải uốn nắn ngay đi nhà mình vườn ít, ruộng không, cửi vải cũng không, nghĩa là công việc chẳng có gì; nó ở nhà cũng chỉ chơi; để mặc nó lêu lổng chạy ra ngoài đường, đánh chắt, đánh ô, rồi nó hư thân; chi bằng cho nó đi ăn đi ở với người ta, để người ta bắt nó cất nhắc việc nọ, việc kia cho nó quen tay; có việc làm rồi mới biết việc mà làm, chỉ nhông nhổng chơi quen, đến lúc phải làm tất gờ guộng chân tay, chẳng đánh đổ cái này cũng đánh vỡ cái kia, cái thứ con gái mà cầm đến cái gầu không biết tát làm sao, đưa cho đám mạ không biết cấy thế nào, bảo ngồi lên khung cửi nhắc lấy cái thoi thì lúng ta lúng túng, là thứ con gái đáng cho hùm ăn thịt. Thị nhất định cho Dần đi ở để học cho quen công việc cửi vải, ruộng vườn, sau này độ cái thân ấy là cái lợi xa xôi. Nhưng lại còn cái lợi nhãn tiền nhà đỡ một miệng ăn. Nếu bớt được mỗi ngày vài lẻ gạo, thì ít ra các em Dần cũng được no hơn. Rồi có được đồng công nào cũng là hay. Mà chẳng được thì mỗi năm người ta cũng thí bỏ cho cái quần, cái áo. Bố mẹ, nếu chẳng được nhờ con thì cũng chẳng còn phải lo lắng gì vào thân đi ở. Nó ở cho nhà bà chánh Liễu. Nhà bà chánh dệt chín mười khung cửi. Bà thuê Dần, với hai con bé nữa, để chúng dọn vặt và trông nom ống suốt Năm đầu, công cả năm có một đồng, với một cái áo cánh vải to, một cái quần sồng, một cái thắt lưng. Nhưng nếu chịu khó và ngoan thì bà sẽ cho hơn. Còn cái sự ăn bà giao hẹn cả với người ta vì tính bà rất phân minh thì bà cũng không dám nói chắc rằng đói hay no; bởi vì tiếng rằng giàu, nhưng nhà bà cũng cơm chia sáng, mỗi người một lùm; trưa, ba lượt thật đầy; tối, củ khoai, củ ráy, bụng trẻ con, như vậy, thì có lẽ cũng không phải đói. Mẹ Dần cho như thế đã là hậu quá. Bởi vì thật ra, ở nhà Dần, Dần có được ăn ba bữa thế đâu? Mỗi ngày, chỉ bữa trưa. Mà hiếm họa lắm mới có bữa được mỗi người ba vực chặt. Thường thường là hai vực, hơn hai vực. Có khi một. Cũng có khi chẳng vực nào, phải ăn ráy, ăn khoai trừ bữa. Thế mà Dần chịu được, thì vào nhà bà chánh, cố nhiên là Dần chịu được, Dần sung sướng là khác nữa. Con người ta, có cơm vào là có da, có thịt ngay. Chẳng lâu đâu. Người mẹ nghĩ và mừng. Thị chắc chỉ vài, ba tháng sau, nếu Dần được một ngày rỗi rãi về chơi với các em, cả nhà sẽ ngạc nhiên thấy nó béo như con cun cút. Mà trắng, mà đẹp, mà lành lặn, ra phết cô con gái lắm!…Mơ ước hão! Bởi vì ít lâu nay, Dần có về thật, nhưng nó vẫn gầy như một cái que. Nó khóc hu hu. Nó đòi ở nhà với các em, muốn cho ăn thế nào thì cho, muốn bắt làm gì thì bắt, chỉ đừng bắt nó ở cho nhà bà chánh nữa. Cơm nhà giàu khó nuốt. Ăn của họ mà không làm lợi cho họ được thì họ làm cho đến phải mửa ra mà giả họ. Dần chân yếu tay mềm lắm. Nó thà nhịn đói mà ở cửa, ở nhà còn hơn. Mẹ Dần nhất định không nghe. Thương con thì để bụng. Nuông con thà giết con đi. Trẻ con đứa nào chả thích ở nhà với bố, với mẹ để chẳng người nào động đến thân? i ở cho nhà người ta, ăn cơm của người ta, lấy công của người ta, thì cố nhiên là phải làm cho đáng cơm, đáng công của người ta. Làm không được người ta thiệt thì người ta xót. Người ta xót thì người ta phải nói. Nói, mình nghe thì chớ, không nghe thì người ta phải chửi, phải đánh. Người ta đánh chửi cho là phúc nhà mình đấy, không đánh, không chửi, sao có nên thân người được? Thị bảo Dần “Mày có hư thì người ta mới đánh; đánh thế chứ đánh nữa tao cũng không thương chút nào; mày muốn sống, thì về nhà bà chánh mà ở, không về thì đi đâu mặc kệ! Tao không chứa, tao không lấy gì nuôi được mày…”.Hỡi ôi! Người mẹ rất đáng thương của Dần chết đến hôm nay đã quá một năm rồi. Nghĩ đến mẹ lúc nào, Dần cũng ngậm ngùi. Bởi vì bà nói thế, nhưng bà chẳng nghĩ thế đâu. Khi đã cố làm ra mặt hắt hủi để cho Dần chịu đi rồi, bà ôm mặt khóc hu hu. Bà bảo chồng rằng “Nghĩ đến con lúc nào thì thương con đứt ruột. Nhưng biết làm sao? Trời bắt tội mình nghèo. Nó ở nhà mình thì ăn cũng chẳng bao giờ được bữa no. ã đành ăn không no, nó cũng còn sướng hơn ở nhà bà chánh, được ăn no. Nhưng mình liệu có nuôi được nó suốt đời không? Rồi chỉ vài ba tuổi nữa, có ai thương đến nó, xin nó cho con nhà người ta, mình đừng gả hay sao? Về nhà chồng mà thổi cơm không chín, quét nhà chẳng nên thì liệu người ta có khỏi đào ông, bới cha không? Vả lại cái đời nó còn dài. Không bắt nó ép mình, ép xác cho quen, rồi khổ ngay vào chính cái thân của nó. Mình nghĩ đến nó nhiều chứ có phải bắt nó đi ở để hòng được lợi mỗi năm một vài đồng bạc công đâu?”.Bố Dần chẳng nói sao. Ông chỉ thở dài. Nhưng ông cũng ngơ ngẩn hàng ngày, hàng buổi như nhớ con lắm. Về sau, các em Dần lại kể với Dần như thế, nên Dần mới biết. Dần không muốn làm khổ cha mẹ nữa, nên khổ đến chết cũng đành cắn răng mà chịu, không dám khóc lóc đòi về. Lâu dần rồi nó cũng quen đi. Cái sự khổ thì bao giờ cũng thế thôi. Nhưng khi người ta đã nhất định chịu, thì khổ thế nào mà không chịu ở cho nhà bà chánh Liễu đúng hai năm. Nó mới về nhà từ dạo đầu giêng. Vụ mùa năm ngoái, mẹ Dần đi tả mấy cơn, rồi lại không chịu kiêng khem, cứ đi làm; mưa nắng nhiễm vào người – mà sức một người vừa mới ốm xong còn được bao nhiêu? – Thị phải lại một trận kịch liệt rồi thì chết. Thành thử nhà chỉ còn một bố, là đàn ông, với hai đứa trẻ con, vắt gỉ mũi chưa được sạch chúng nó chưa biết làm gì cả. Hai đứa áp với Dần, giá trời để cho chúng nên người thì bây giờ đã đứa thổi được nồi cơm, đứa quét được cái nhà; nhưng một năm xưa, hai đứa lên đậu cách nhau có vài ngày, rồi chết, cũng cách nhau có vài ngày. Bố Dần, cố đợi hết năm, đến nói với bà chánh Liễu xin cho con gái mình về. Dần ở nhà coi sóc các em, chăm mấy sào vườn bòn bán, nhặt nhạnh để cho bố đi làm. Bốn bố con lịu nhịu nuôi nhau. Con nhà nghèo thường sớm biết, sớm khôn. Dần mới mười lăm mà đã quán xuyến được mọi việc trong nhà, biết suy tính, biết liệu lo, chẳng kém gì một người nội trợ đã sành sỏi ông trời hình như không muốn cho bố con Dần ngóc đầu lên. Cuộc sống mỗi ngày một khó thêm. Gạo kém, thóc cao. Ngô, khoai cũng khó chuốc được mà ăn. Thậm chí đến hạt muối cũng sinh ra hiếm nốt mua một vài xu chẳng hàng nào chịu bán. ồng tiền thành ra rẻ quá. Công làm tuy có cao hơn, nhưng chẳng thấm vào đâu. Trước kia, mỗi người làm mỗi ngày hào rưỡi thì đã gần đủ cả nhà ăn; bây giờ mỗi ngày được ba hào, tiền gấp hai, nhưng nếu đem đong gạo thì chưa bằng một góc ngày xưa, thành thử một người ăn cũng hết. Ngày làm đã vậy, còn ngày nghỉ có phải ngày nào cũng có người thuê đâu? ã thế lại còn bão, lại còn lụt, rồi lụt chán, đến vụ chiêm lại giở trò đại hạn. Rồi những nhà giàu, chúng không thể chôn bạc giấy, nhất định để thóc mọc mầm trong nhà chứ không chịu bán. Gạo cứ mỗi ngày một giá. Không biết rồi làm gì ra tiền mà đong?Một đêm, sau khi đã than thở với con hết quá một trống canh rồi, bố Dần thở dài bảo con rằng– Cơ cực này, nếu còn ở nhà, rồi đến chết đói cả lũ mà thôi. Bây giờ mà còn thế, đến tháng hai, tháng ba này còn khổ đến đâu? Bố con mình có thân thì phải liệu dần đi. C ũng chẳng còn mấy ngày nữa mà đã Tết, thôi thì ta cũng cố mà chịu vậy qua giêng rồi sẽ tính.– Thầy bảo con tính thế nào? Nhà mình thì chỉ có cấp làm thuê. Thời vụ lại hết rồi. Qua giêng, con chắc mười ngày nghỉ, chưa chắc có một ngày có việc.– Ấy thế mình mới lại càng cần phải tính. Nếu có việc thì còn phải lo gì nữa? Chẳng được cơm thì cũng được cháo, miễn là không chết lả… Nhưng không có việc!… Cho nên tao định lên rừng một chuyến.– Eo ôi!– Việc gì mà “eo ôi?”. Bây giờ người ta đi như đi chợ. Nghe nói trên ấy làm ăn còn dễ. Làng ta, về cánh nhà ông trương Huấn đấy, họ đi tất cả bằng ấy anh em, mà anh nào về cũng có tiền.– Tiền rừng, bạc bể chả dễ nuốt được đâu. Vô phúc mà ngã nước một chuyến thì lại được!…– Thì chỉ đến chết là cùng, chứ gì? Còn hơn ngồi nhà mà chết đói. Thế mày bảo không liều thân đi như thế, thì còn xoay xấp gì để kiếm ra tiền được nữa, nào?Ồ mà đúng như vậy thật. Dần chẳng còn biết đáp sao được nữa. Nó đành lẳng lặng. Câu chuyện ngắt ra vài phút. Trong khi ấy, cả hai đều nghĩ ngợi. Dần bỗng hỏi– Cả chúng con cũng đi à?– Không. Tao hãy đi một mình trước, xem vội kêu lên– Chịu thôi! Chúng con chả dám ở nhà đâu. êm hôm có ba đứa trẻ ranh!…Nó sợ có nắm gạo hay củ ráy, củ khoai cũng không giữ được mà ăn. Nhưng thầy nó bảo– Tao đã liệu chỗ ấy rồi. Vườn đất với các em, tao sẽ nhờ chú Lữ trông nom. Bòn bán thế nào chả đủ cho hai đứa chúng nó ăn. Mà không đủ thì tao đến…Còn nó? Chắc thầy nó lại định cho nó đi ở cho nhà bà chánh Liễu hay nhà nào khác đấy. “Thì cũng được!…”. Dần nghĩ vậy. Cái thân nó, nào nó có cần gì? Nhưng nghĩ đến cảnh nhà tan tác mà buồn. Rồi đây bố một nơi, con một nẻo, chị em mỗi đứa nhờ vả một người… Nó đã sắp nói một lời gì để can cha, thì cha đã bảo– Còn mày thì tao cho người ta cưới xin khiến Dần thèn thẹn. Thành thử nó lại không tìm được câu gì để nói. Vẫn người bố nói– Thôi thì trước sau cũng một lần. Có rùi gắng cũng chẳng rùi gắng được bao nhiêu. Mắc cái người ta xin cưới mấy lần rồi. Tao khất mãi để cho hết tang bu mày đã; nhưng người ta nhất định xin lo trước. Chết cái con gái người ta cũng sắp cưới rồi nhà người ta cũng neo người; không cưới mày về thì ngay đứa sai vặt cũng không có nữa. Vả lại chỗ người ta với mình, không lẽ thế nào? Người ta ăn ở phải thì mình cũng phải ăn ở phải, thấy người ta nói mãi, tao cũng tức tối– Nể! Nể cái gì! Thầy cứ bảo rằng mẹ con chết đi rồi, hai em thì còn dại, chỉ có con hơi lớn một tí phải ở nhà để thổi cơm, nấu nước.– Thì tao vẫn bảo người ta thế. Nhưng người ta không chịu.– Không chịu là không chịu thế nào? Quyền còn ở mình…– Thì vẫn là quyền còn ở mình? Cho nên người ta có dám bắt mình đâu? Người ta chỉ cố nài. Người ta nói khó với mình. Tao thề với mày hai ba lần bà ấy không khóc với tao, tao chết! Rồi bà ấy lạy. Bà ấy bảo Thế này này, ông ạ ông cũng khổ, nhưng tôi còn khổ hơn ông, thầy cháu chết đi, tôi chỉ được có mình cháu là con trai, ông cố thương tôi…”. Như thế thì tao còn biết từ chối người ta thế nào cho tiện?Rồi thầy Dần nói nhỏ– Mắc cái lúc mẹ mày nằm xuống, nhà không còn một đồng xu nào, không còn vớ víu vào đâu được, tao đã nhận của người ta hai mươi đồng bạc cưới. Ý người ta định đưa tiền trước thế, rồi xin cưới ngay cuối năm, năm ngoái. Tao phải khất. Nhưng không lẽ khất lần người ta mãi? Người ta lại tưởng mình có ý lừa lọc gì người ta chăng. Hôm nọ người ta lại đến xin lần nữa. Họ xin đến tháng giêng… Nhưng từ giờ đến tháng giêng có là bao? ằng nào mày cũng phải đi, mà mày đi thì tao không làm thế nào vừa trông coi các em mày vừa đi làm được. Cho nên tao nhất định mang gửi chúng nó, rồi lên rừng một chuyến. Kiếm ăn được, tao sẽ đem chúng nó đi. ịnh thế, nên tao bảo người ta “Nếu bà nhất định lo, thì tôi cho lo ngay dạo trong năm”. Người ta có hỏi tao “Ông đã thương… trước nữa là thương cháu, sau nữa là thương tôi, mà rộng cho như thế, thật cũng là phúc nhà chúng tôi lắm lắm. Tình cảnh nhà tôi, chắc ông cũng chẳng còn lạ gì. Chúng ta cùng là cái chỗ nghèo hèn, thì con cái chúng ta lại làm bạn với nhau. Vậy ông định may vá cho cháu thế nào, ăn tiêu thế nào, thì ông cho chúng tôi biết để chúng tôi lo. Tao nghĩ nát ruột cũng không biết trả lời thế nào cho tiện. Vải giấy như vải giấy năm nay?… Xin ít thì không biết may gì. Chỉ một bộ quần áo cánh vải to cũng phải non ba chục. Mà xin nhiều thì mang tiếng; với lại người ta lấy gì mà đưa cho mình được? Vay công vay nợ lắm vào thì về sau lại chỉ khổ chúng mày. Tao phải bảo người ta muốn may cho mày thế nào thì may lấy, tao không dám nhận. Bà ta bảo “Ta với ta, chẳng nói gì ông cũng rõ cái lúc khó khăn thế này, mười nhà họa mới có một nhà có tiền mà may mặc, còn thì chỉ quần manh, áo vá, đeo dây, quấn rợ; chắc ở nhà ông thì cũng thế, mà nhà tôi thì cũng vậy. May quần chùng áo dài cho cháu, bất quá chỉ mặc một ngày cưới mà thôi, rồi cũng bằng để đấy, cảnh nhà chúng ta thì còn hội hè đình đám gì mà phải sắm quần chùng áo dài kia chứ?… Vậy ông đã dạy thế, thì tôi xin may cho cháu một bộ quần áo vải, quần áo cánh thôi, để cháu nó mặc đi làm ấy; còn hôm cưới, nếu cháu nó chưa có áo chùng, thì tôi xin đưa cái áo chùng của tôi cho nó mặc, cho nó qua cái ngày ấy, kẻo cháu nó là trẻ con nó lại tủi thân chăng. Rồi từ hôm sau mà đi lại cứ quần áo đụp, đem ra mà mặc. Cái áo dài lại cất đi. ấy, nhà có một mẹ, một con, chỉ một cái áo dài là đủ chán! Mẹ đi đâu mẹ mặc; con đi đâu con mặc. Việc may mặc cho cháu thế cũng là tàm tạm được. Còn ý ông định ăn uống thế nào, xin cho biết”. Người ta nói thế là có ý hỏi mình có cần cau rượu, tiền nong gì nữa hay không? Tao nghĩ cũng chẳng còn nên xin thêm nữa. Mình cất lấy hai chục đồng bạc của người ta, hơn một năm, có đến năm rưỡi trời rồi. Vả lại còn đang có trở bu mày, cũng nên làm vụng làm trộm, miễn là xong việc thì thôi. Vậy họ đương, anh em, tao nhất định chẳng bảo ai. ằng nhà trai cũng vậy. Bà ấy đã thú thật rằng phải biện năm, ba cỗ thế nào, về đằng họ nhà gái, thì xin biện; chứ đằng họ nhà bà ấy tịnh không mời người nào cả. Bởi việc phải lo thì lo, chứ thật ra một tí gì cũng vào công nợ cả. Công nợ lắm thì về sau chỉ chết chúng mày, chứ chết ai? Vì thế, nên tao bảo Bà ạ, dẫu rằng “Vui thì vui cả triều đình, chẳng vui, vui thể một mình vui chi?”. ằng nhà trai, bà còn không muốn bảo ai, thì đằng nhà gái bây giờ đang còn tang mẹ cháu, tôi cũng chẳng bảo ai sất cả. Vậy bà định ngày nào cứ một mình bà với chồng nó đến, tôi cũng chỉ cho hai em nó đưa nó về. Thế cũng xong. Ai cười đến hạng nhà chúng ta? Còn như sự tiền nong… đáng lẽ tôi chẳng nên xin thêm đồng nào nữa mới phải hồi mẹ cháu mất, tôi cất lấy hai chục đồng bạc của bà, là tôi phải nghĩ, nhưng phương ngôn dạy rằng giàu bán chó, khó bán con; tôi cũng còn đồng công, đồng nợ, tất cả độ mười đồng, kể cái sự bắt bà trả cả thì cũng không dám bắt, nhưng tôi xin thêm dăm đồng nữa để trang trải những chỗ tôi vay mượn để lo cho bu cháu, hồi bu cháu mất. Như thế cũng như là tiền của cháu, cháu bỏ ra để trả nghĩa cho bu cháu. Tôi không dám tơ hào gì vào đấy. Ấy là tao cũng nói dối bà ấy thế, chứ công nợ tao cũng chưa trả vội; tao nắm lấy dăm đồng ấy, để ra giêng đi lên rừng…Câu chuyện đêm hôm ấy Dần đang thầm nhắc lại, trong khi đưa đẩy cái chổi cùn trên mặt cái sân con. Bởi vì hôm nay chính là ngày bà mẹ chồng sẽ đến rước Dần đi. êm hôm qua, đợi hai đứa bé ngủ rồi, hai cha con lại thở dài, thở ngắn với nhau. Dần khóc đến quá nửa đêm, rồi thiếp đi lúc nào chẳng biết. Sáng dậy, Dần có cảm tưởng như nó mới chợp mắt đi một tý. Nó thấy người mỏi mệt. Dù vậy, nó cũng chạy ra ngoài quét thóc…Dần quét xong thì ở đằng đông, mặt trời đã nhô lên. Những tia sáng đầu tiên chọc thủng tấm màn sương, rồi xé toạc mãi ra. ánh sáng tràn đi. Trong khoảnh khắc, trở nên quang hẳn… Dần ra ao, rửa mặt. Lúc trở về nhà, nó thấy bố và hai em đã dậy rồi. Hai đứa con, mỗi đứa ôm một đùi cha ngồi lử thử, lừ thừ. ôi mi mắt trông có vẻ hơi sưng. Dần cúi mặt, bởi nó đoán rằng đêm hôm qua, cha cũng khóc. Nó vờ tìm cái chổi, tuy nó biết nhà không còn cái chổi nào nữa, ngoài cái nó vừa quét và để ngoài đầu chái…Thầy nó bảo– Hôm nay mày phải xuống chợ một tý đi, con ạ.– Mua bán gì mà đi chợ?– Mua mấy xu chè tươi, với mấy quả cau. Người ta đến, cũng phải có bát nước, miếng trầu tươm tất chứ?– Chào!… Vẽ chuyện!– Sao lại vẽ chuyện? Không có, không coi cười tủm tỉm. Thằng em lớn, tỳ một tay lên đùi cha, múa may tay kia và nhún nhảy người, giễu chị– Lêu lêu! Lêu lêu? Có người sắp được đi lấy chồng… Lêu khoặm mặt, lườm em. Người cha sợ con gái nhìn xấu hổ, củng vào đầu con trai một cái và mắng nó– Im thằng này!… ể cho người ta dặn nó. Mua độ hai xu chè…– Rầy hai xu, hàng chè nó chả bán thì sao… Dần kêu lên thế và cố cười to để cho khỏi thẹn. Người cha cũng cười và hỏi– Hai xu không bán, thì mấy xu mới bán?– Ít nhất là năm xu. Mua ít nó không có tiền trả lại.– Thì mua cả năm xu vậy. Năm xu thì nấu được mấy ấm?– Một ngàn ấm… Ông lão cả đời không đi chợ, cứ tưởng chè rẻ lắm. Quen với ngày xưa, độ một xu một ấm bây giờ năm xu, nấu đặc chỉ được một ấm là hết Dần lè lưỡi ra– Èo! Mẹ ơi!– Thật… Không có thế, cứ cổ con mà chặt? Muốn mua thì mua, chẳng mua thì đừng, chứ cái sự đắt thì ngang ngang với nhân sâm.– ắt thì cũng phải mua. Năm xu chè, với hai quả cau ngon ngon một tý.– Cau ngon phải tám, chín xu một quả.– Vị chi đi ba xu một miếng trầu?– úng thế, không kém ba xu một miếng.– Trời đất ạ!… Có đời nào như vậy? Cái thổ tả gì cũng đắt!… cho nên tao vẫn bảo Cái lúc này chẳng nên giở giang ra làm gì. Mọi đồng mọi tốn. Giá làm độ mươi lăm cỗ, chắc mất đến năm chục bạc. Miếng bùi chui qua cổ; mình ăn một bữa có no được bằng đời đâu, mà người ta phải chạy cỗ cho họ đương nhà mình thì khổ. Thà bất nhược là ta chước hết?…– Ấy thầy thì chỉ thế… Cái gì cũng chước! Thành thử ra con mình chỉ theo không.– Theo không cũng được. Mẹ mày ngày xưa cũng chỉ theo không tao đấy. Thế mà cũng ăn ở với nhau được mãi, sinh con đẻ cái, mà lại còn thương yêu nhau bằng tám những cặp vợ chồng cưới linh đình. Mẹ kiếp! Lắm đám cưới linh đình, mà rồi lại chả bỏ nhau ùn ùn ra đấy à?Dần lại cười tủm tỉm. Bởi nhắc đến vợ, thầy nó bỗng nhớ ra một điều…– Tý nữa quên! Con nhớ mua mấy nén hương… Hôm nay là ngày cưới con, cỗ bàn đã chả có thì thôi, mấy nén hương cũng không có nốt thì phải tội…Cái ý ấy – sự nhớ tưởng đến người đã khuất – khiến cả hai bố con cùng buồn bã. Mắt rơm rớm nước, thầy nó thở dài rồi bùi ngùi bảo– Biết vậy, tao cũng bảo bà ấy biện một mâm để cúng bu mày. Người sống, chẳng có thì thôi, nhưng người chết…Dần thổn thức. Nó sợ còn đứng đấy thì nó sẽ khóc òa lên mất. Nó cố bảo– “Thôi! Con đi chợ…” rồi chạy ra. Ra đến sân nó mới nghe thấy thầy nó bảo– Ừ con chiều hôm ấy, bà mẹ chồng và chồng Dần mới đến. Cả hai cùng mặc quần áo cánh. Bà mẹ khoác một cái áo nâu dài đã bạc ở trên vai. Chú rể xách một chẽ cau, chừng một chục quả. Vào đến nhà, y lúng túng không biết đặt đâu. Bà mẹ trông thấy bảo Dần– Cho bu mượn cái đĩa đi, con!Mặt Dần đã đỏ bừng. Hai đứa em nó, trông thấy, cười rúc rích. Nó lợi dụng câu sai của mẹ chồng, để chạy tót ra chái đứng. Một lúc lâu nó cũng không vào. Thầy nó phải đỡ lấy chỗ cau ở tay bà mẹ chồng, đặt lên giường thờ mẹ nó. Rồi thầy nó nói thật to– i nấu nước đi con!Không thấy con gái thưa, ông phải bảo thằng con trai lớn– Chạy ra bảo chị đun ấm ông thân hành đi lấy chìa vôi ra để têm trầu. Bà mẹ chồng có lời ngay– Thưa ông, ông đã có lòng thương đến cháu, mà xét ra, như thế này thì thật ông thương quá, thương mọi nhẽ, cái gì ông cũng châm chước đi cho cả, khiến chúng tôi cảm tạ cái bụng ông mà lại lấy làm xấu hổ về cái cách chúng tôi xử lắm. Chúng tôi xử thế này thật quả là không phải. Nhưng lạy Trời, lạy ất!… Chúng tôi cũng muốn nghĩ thế nào kia nhưng ông trời ông ấy chỉ cho nghĩ đến thế thôi, thì cũng phải rầu lòng mà chín bỏ làm mười, chứ như ông thì thật một bỏ làm mười, mà không được một cũng bỏ làm mười. Có vậy thì công việc của cháu mới xong xuôi được. Giá phải bố vợ như bố vợ nhà khác, nhất nhất cái gì cũng bắt đủ lề lối, thì nhà như nhà chúng tôi lấy gì mà lo được? ít là cháu suốt đời không có vợ. Nhưng phúc làm sao, lại gặp được ông bố vợ thương con rể như ông, thì có phải ông trời ông ấy cũng còn thương nhà chúng tôi lắm lắm không?Thôi thì bây giờ mọi sự ông đã thương cho cháu cả rồi, hôm nay tiện được ngày, tôi cũng biện cơi trầu đến kêu với ông để ông cho cháu được lễ các cụ – trước là lễ gia tiên, sau là lễ bác nhà ta, sau nữa ông lại cho cháu lễ sống ông, chẳng có tiền bạc gạo lợn, hay mâm cao cỗ đầy thì cũng phải lấy đầu làm lễ gọi là chút lòng thành của con, cháu các cụ – rồi xin phép ông để chúng tôi đưa cháu về nhà làm lại bao nhiêu lời bóng bẩy, xa xôi ấy, ông bố vợ chỉ trả lời gọn thon lỏn một câu– Vâng! Mời bà cứ ngồi chơi thư thả xơi nước, xơi trầu ông lại cất cao giọng, bảo con– Hễ được nước thì bắc lên đây, con nhé!Rồi ông ngồi lử thử. Bởi vì ông buồn lắm. Chỉ lát nữa là người ta rước Dần đi. êm hôm nay, chỉ còn mình ông với hai đứa trẻ con. Nhà sẽ vắng ngắt vắng ngơ, chẳng khác gì ngày vợ ông mới chết đi. Rồi chỉ mươi bữa, nửa tháng là ông đã phải bỏ nốt hai đứa con trai để ngược… Chao ôi! Buồn biết mấy?… Ông đờ đẫn cả người. Ông nghĩ bụng rằng giá Dần không phải về nhà người ta, thì có lẽ chẳng đời nào ông phải lên rừng; ông cứ ở nhà với ba con, bố con đùm bọc lấy nhau, bây giờ bỏ lại hai đứa bé mà đi, ông thương chúng nó quá… A thì ra ông phải đi nơi khác làm ăn, chẳng phải vì cớ gì khác mà chỉ vì Dần phải đi lấy chồng, Dần đi lấy chồng, không ai trông coi vườn đất, nhà cửa, con cái cho ông nữa… Ông buồn quá. Ông đáp lại những câu rất dài dòng của bà thông gia bằng những câu ngắn ngủn. Bà thông gia, trái lại nhiều lời lắm. Bà vui vẻ. Bà nói luôn. Bởi tài ăn nói của người ta, một đời mới có dịp dùng đến độ vài lần. Bà thì chỉ một lần thôi, bởi vì bà có mỗi một mống con trai. Lấy một con vợ cho con, có dễ đâu? Nhất là mình lại không có nhiều tiền. Công việc phải qua mấy mươi nấc, mấy mươi cầu. Chưa cưới được vợ về cho con, thì còn là đi lại mỏi chân, van ông lạy bà sái hàm răng… Công việc của bà, mười phần xong đến chín phần rồi. Còn một tý chút nữa mà thôi. Tội gì không ngọt ngào với người ta cho yên ổn cả. Người ta gả con gái, đã chẳng được gì thì cũng phải được lời nói mát lòng, mát ruột cho hả dạ…ến tối, đám cưới mới ra đi. Vẻn vẹn có sáu người, cả nhà gái nhà trai. Ông bố vợ đã tưởng không đi. Nhưng bà mẹ chồng cố mời. Vả lại nếu ông không đi, thì hai đứa bé cũng không thể đi mà Dần thì đang khóc lóc. Nếu chỉ có mình nó ra đi thì có lẽ nó cũng không chịu nốt. Ông đành kéo mấy cành rào lấp ngõ rồi đi không chịu mặc cái áo dài của bà mẹ chồng đưa, thành thử lại chính bà khoác cái áo ấy trên vai. Dần mặc những áo vải ngày thường nghĩa là một cái quần cồng cộc xẫng và đụp những miếng vá thật to, một cái áo cánh nâu bạc phếch và cũng vá nhiều chỗ lắm, một bên tay rách quá, đã xé cụt gần đến nách. Nó sụt sịt khóc, đi bên cạnh mẹ chồng. Chú rể dắt đứa em lớn của Dần. Còn thằng bé thì ông bố cõng. Cả bọn đi lủi thủi trong sương lạnh và bóng tối như một gia đình xẩm lẳng lặng dắt díu nhau đi tìm chỗ ngủ… ến nhà trai, bà mẹ chồng mời bố Dần uống nước ăn trầu. Rồi bà giết một con gà, dọn cho ba bố con ông một mâm cơm. Dần vừa thẹn vừa buồn không chịu ngồi ăn. Ba bố con lặng lẽ ăn. Người cha ăn có vài lượt cơm, rồi buông bát đĩa, ngồi xỉa răng đợi cho hai đứa con ăn. Ông thúc chúng ăn nhanh lên, rồi còn về kẻo khuya. Thằng lớn và cơm phùng mồm ra, bị nghẹn mấy lần. Khi cả hai con đã thôi cơm, ông cho chúng nó uống nước rồi đứng lên, chào bà mẹ chồng Dần để ra về. Ông dắt thằng lớn và cõng thằng bé trên lưng. Dần đứng đợi cha ở ngoài sân. Nó vẫn còn dụi mắt. Người cha ái ngại, đứng lại nhìn con một thoáng rồi âu yếm bảo– Thôi! Thầy cho em về khóc nấc lên. Hai đứa em không còn chế nhạo nữa. Thằng lớn chực khóc. Thằng bé ngây mặt ra vì không hiểu sao cả. Người cha mắng yêu con– Mẹ chúng mày!…Bà mẹ chồng thấy Dần khóc quá, chạy ra. Bố Dần vội bước đi. Dần chạy theo cha, nức nở– Thầy!… Thầy…– Mẹ mày!… nín đi cho thầy về.– Thầy đừng… đi… lên rừng!Người cha thấy lòng thổn thức và đáp liều– Ừ, thì thôi… Mẹ mày! Truyện ngắn Nam Cao Dần thức dậy thì trong nhà còn tối om om. êm tháng chạp, trời lâu sáng. Thật ra thì gà gáy đã lâu. Tiếng gà gáy xôn xao. Và óc Dần còn lưởng vưởng một ý nhớ mơ hồ, giống như khi người ta nhớ lại những chốn mình đã qua trong một giấc chiêm bao Dần chưa tỉnh hẳn ra, Dần đã thấy những tiếng gà gáy rất mong manh, rất xa xôi vẩn lên trong giấc ngủ nửa mê nửa tỉnh. Rồi thì Dần tỉnh hẳn. Có lẽ do một tiếng gáy cộc lốc của anh gà trụi trong chuồng gà nhà bên cạnh. Con gà đang ở thời kỳ tập gáy, tiếng gáy ngắn nhưng đã vang động lắm. ấy là một con gà có sức. Dần phác lại trong tưởng tượng cái hình dung lộc ngộc của nó, lấc cấc và vụng dại như một anh con trai mười sáu tuổi, đôi chân cao, cái cổ trần ngất nghểu, cái mào đỏ khè mới hơi nhu nhú, cái đuôi cụt ngủn. Anh chàng rất hay sang nhà nó tãi gio, tãi rác, khiến nó bực mình đã mấy lần toan vụt chết. Dần nhỏm dậy. Nó sờ soạng ra khỏi cái ổ rơm rồi đi thẳng ra ngoài. Bên ngoài mịt mù sương. Khí lạnh sắc như dao. Dần rùng mình và hắt hơi mấy cái luôn. Nó thấy cần phải động đậy ngay, cần phải làm ngay một việc gì cho nóng người đã rét mà lại còn đứng co ro thì chỉ càng tổ rét. Nó mải mốt vơ lấy cái chổi để quét sân, quét ngõ. Việc quét tước ấy chẳng sáng nào nó quên làm, dù sân nhà có bẩn hay không. Ấy là một thói quen cũng như cái thói quen dậy từ lúc hãy còn đêm. Nết chăm chỉ ấy, nó học được mấy năm đi ở. Dần đi ở từ năm chửa mười hai. Khi ấy, đầu nó còn để hai cái trái đào. Nó mới biết cầm vững cái chổi để quét nhà và thổi một niêu cơm con con không sống, không khê. Mẹ nó vốn nghèo từ trong trứng nghèo ra, nên hay liệu, hay lo. Thị nghĩ rằng Con mình đã lớn rồi, phải uốn nắn ngay đi nhà mình vườn ít, ruộng không, cửi vải cũng không, nghĩa là công việc chẳng có gì; nó ở nhà cũng chỉ chơi; để mặc nó lêu lổng chạy ra ngoài đường, đánh chắt, đánh ô, rồi nó hư thân; chi bằng cho nó đi ăn đi ở với người ta, để người ta bắt nó cất nhắc việc nọ, việc kia cho nó quen tay; có việc làm rồi mới biết việc mà làm, chỉ nhông nhổng chơi quen, đến lúc phải làm tất gờ guộng chân tay, chẳng đánh đổ cái này cũng đánh vỡ cái kia, cái thứ con gái mà cầm đến cái gầu không biết tát làm sao, đưa cho đám mạ không biết cấy thế nào, bảo ngồi lên khung cửi nhắc lấy cái thoi thì lúng ta lúng túng, là thứ con gái đáng cho hùm ăn thịt. Thị nhất định cho Dần đi ở để học cho quen công việc cửi vải, ruộng vườn, sau này độ cái thân ấy là cái lợi xa xôi. Nhưng lại còn cái lợi nhãn tiền nhà đỡ một miệng ăn. Nếu bớt được mỗi ngày vài lẻ gạo, thì ít ra các em Dần cũng được no hơn. Rồi có được đồng công nào cũng là hay. Mà chẳng được thì mỗi năm người ta cũng thí bỏ cho cái quần, cái áo. Bố mẹ, nếu chẳng được nhờ con thì cũng chẳng còn phải lo lắng gì vào thân nó. Dần đi ở. Nó ở cho nhà bà chánh Liễu. Nhà bà chánh dệt chín mười khung cửi. Bà thuê Dần, với hai con bé nữa, để chúng dọn vặt và trông nom ống suốt Năm đầu, công cả năm có một đồng, với một cái áo cánh vải to, một cái quần sồng, một cái thắt lưng. Nhưng nếu chịu khó và ngoan thì bà sẽ cho hơn. Còn cái sự ăn bà giao hẹn cả với người ta vì tính bà rất phân minh thì bà cũng không dám nói chắc rằng đói hay no; bởi vì tiếng rằng giàu, nhưng nhà bà cũng cơm chia sáng, mỗi người một lùm; trưa, ba lượt thật đầy; tối, củ khoai, củ ráy, bụng trẻ con, như vậy, thì có lẽ cũng không phải đói. Mẹ Dần cho như thế đã là hậu quá. Bởi vì thật ra, ở nhà Dần, Dần có được ăn ba bữa thế đâu? Mỗi ngày, chỉ bữa trưa. Mà hiếm họa lắm mới có bữa được mỗi người ba vực chặt. Thường thường là hai vực, hơn hai vực. Có khi một. Cũng có khi chẳng vực nào, phải ăn ráy, ăn khoai trừ bữa. Thế mà Dần chịu được, thì vào nhà bà chánh, cố nhiên là Dần chịu được, Dần sung sướng là khác nữa. Con người ta, có cơm vào là có da, có thịt ngay. Chẳng lâu đâu. Người mẹ nghĩ và mừng. Thị chắc chỉ vài, ba tháng sau, nếu Dần được một ngày rỗi rãi về chơi với các em, cả nhà sẽ ngạc nhiên thấy nó béo như con cun cút. Mà trắng, mà đẹp, mà lành lặn, ra phết cô con gái lắm!... Mơ ước hão! Bởi vì ít lâu nay, Dần có về thật, nhưng nó vẫn gầy như một cái que. Nó khóc hu hu. Nó đòi ở nhà với các em, muốn cho ăn thế nào thì cho, muốn bắt làm gì thì bắt, chỉ đừng bắt nó ở cho nhà bà chánh nữa. Cơm nhà giàu khó nuốt. Ăn của họ mà không làm lợi cho họ được thì họ làm cho đến phải mửa ra mà giả họ. Dần chân yếu tay mềm lắm. Nó thà nhịn đói mà ở cửa, ở nhà còn hơn. Mẹ Dần nhất định không nghe. Thương con thì để bụng. Nuông con thà giết con đi. Trẻ con đứa nào chả thích ở nhà với bố, với mẹ để chẳng người nào động đến thân? i ở cho nhà người ta, ăn cơm của người ta, lấy công của người ta, thì cố nhiên là phải làm cho đáng cơm, đáng công của người ta. Làm không được người ta thiệt thì người ta xót. Người ta xót thì người ta phải nói. Nói, mình nghe thì chớ, không nghe thì người ta phải chửi, phải đánh. Người ta đánh chửi cho là phúc nhà mình đấy, không đánh, không chửi, sao có nên thân người được? Thị bảo Dần "Mày có hư thì người ta mới đánh; đánh thế chứ đánh nữa tao cũng không thương chút nào; mày muốn sống, thì về nhà bà chánh mà ở, không về thì đi đâu mặc kệ! Tao không chứa, tao không lấy gì nuôi được mày...". Hỡi ôi! Người mẹ rất đáng thương của Dần chết đến hôm nay đã quá một năm rồi. Nghĩ đến mẹ lúc nào, Dần cũng ngậm ngùi. Bởi vì bà nói thế, nhưng bà chẳng nghĩ thế đâu. Khi đã cố làm ra mặt hắt hủi để cho Dần chịu đi rồi, bà ôm mặt khóc hu hu. Bà bảo chồng rằng "Nghĩ đến con lúc nào thì thương con đứt ruột. Nhưng biết làm sao? Trời bắt tội mình nghèo. Nó ở nhà mình thì ăn cũng chẳng bao giờ được bữa no. ã đành ăn không no, nó cũng còn sướng hơn ở nhà bà chánh, được ăn no. Nhưng mình liệu có nuôi được nó suốt đời không? Rồi chỉ vài ba tuổi nữa, có ai thương đến nó, xin nó cho con nhà người ta, mình đừng gả hay sao? Về nhà chồng mà thổi cơm không chín, quét nhà chẳng nên thì liệu người ta có khỏi đào ông, bới cha không? Vả lại cái đời nó còn dài. Không bắt nó ép mình, ép xác cho quen, rồi khổ ngay vào chính cái thân của nó. Mình nghĩ đến nó nhiều chứ có phải bắt nó đi ở để hòng được lợi mỗi năm một vài đồng bạc công đâu?". Bố Dần chẳng nói sao. Ông chỉ thở dài. Nhưng ông cũng ngơ ngẩn hàng ngày, hàng buổi như nhớ con lắm. Về sau, các em Dần lại kể với Dần như thế, nên Dần mới biết. Dần không muốn làm khổ cha mẹ nữa, nên khổ đến chết cũng đành cắn răng mà chịu, không dám khóc lóc đòi về. Lâu dần rồi nó cũng quen đi. Cái sự khổ thì bao giờ cũng thế thôi. Nhưng khi người ta đã nhất định chịu, thì khổ thế nào mà không chịu được. Dần ở cho nhà bà chánh Liễu đúng hai năm. Nó mới về nhà từ dạo đầu giêng. Vụ mùa năm ngoái, mẹ Dần đi tả mấy cơn, rồi lại không chịu kiêng khem, cứ đi làm; mưa nắng nhiễm vào người - mà sức một người vừa mới ốm xong còn được bao nhiêu? - Thị phải lại một trận kịch liệt rồi thì chết. Thành thử nhà chỉ còn một bố, là đàn ông, với hai đứa trẻ con, vắt gỉ mũi chưa được sạch chúng nó chưa biết làm gì cả. Hai đứa áp với Dần, giá trời để cho chúng nên người thì bây giờ đã đứa thổi được nồi cơm, đứa quét được cái nhà; nhưng một năm xưa, hai đứa lên đậu cách nhau có vài ngày, rồi chết, cũng cách nhau có vài ngày. Bố Dần, cố đợi hết năm, đến nói với bà chánh Liễu xin cho con gái mình về. Dần ở nhà coi sóc các em, chăm mấy sào vườn bòn bán, nhặt nhạnh để cho bố đi làm. Bốn bố con lịu nhịu nuôi nhau. Con nhà nghèo thường sớm biết, sớm khôn. Dần mới mười lăm mà đã quán xuyến được mọi việc trong nhà, biết suy tính, biết liệu lo, chẳng kém gì một người nội trợ đã sành sỏi lắm. Nhưng ông trời hình như không muốn cho bố con Dần ngóc đầu lên. Cuộc sống mỗi ngày một khó thêm. Gạo kém, thóc cao. Ngô, khoai cũng khó chuốc được mà ăn. Thậm chí đến hạt muối cũng sinh ra hiếm nốt mua một vài xu chẳng hàng nào chịu bán. ồng tiền thành ra rẻ quá. Công làm tuy có cao hơn, nhưng chẳng thấm vào đâu. Trước kia, mỗi người làm mỗi ngày hào rưỡi thì đã gần đủ cả nhà ăn; bây giờ mỗi ngày được ba hào, tiền gấp hai, nhưng nếu đem đong gạo thì chưa bằng một góc ngày xưa, thành thử một người ăn cũng hết. Ngày làm đã vậy, còn ngày nghỉ có phải ngày nào cũng có người thuê đâu? ã thế lại còn bão, lại còn lụt, rồi lụt chán, đến vụ chiêm lại giở trò đại hạn. Rồi những nhà giàu, chúng không thể chôn bạc giấy, nhất định để thóc mọc mầm trong nhà chứ không chịu bán. Gạo cứ mỗi ngày một giá. Không biết rồi làm gì ra tiền mà đong? Một đêm, sau khi đã than thở với con hết quá một trống canh rồi, bố Dần thở dài bảo con rằng - Cơ cực này, nếu còn ở nhà, rồi đến chết đói cả lũ mà thôi. Bây giờ mà còn thế, đến tháng hai, tháng ba này còn khổ đến đâu? Bố con mình có thân thì phải liệu dần đi. C ũng chẳng còn mấy ngày nữa mà đã Tết, thôi thì ta cũng cố mà chịu vậy qua giêng rồi sẽ tính. - Thầy bảo con tính thế nào? Nhà mình thì chỉ có cấp làm thuê. Thời vụ lại hết rồi. Qua giêng, con chắc mười ngày nghỉ, chưa chắc có một ngày có việc. - Ấy thế mình mới lại càng cần phải tính. Nếu có việc thì còn phải lo gì nữa? Chẳng được cơm thì cũng được cháo, miễn là không chết lả... Nhưng không có việc!... Cho nên tao định lên rừng một chuyến. - Eo ôi! - Việc gì mà "eo ôi?". Bây giờ người ta đi như đi chợ. Nghe nói trên ấy làm ăn còn dễ. Làng ta, về cánh nhà ông trương Huấn đấy, họ đi tất cả bằng ấy anh em, mà anh nào về cũng có tiền. - Tiền rừng, bạc bể chả dễ nuốt được đâu. Vô phúc mà ngã nước một chuyến thì lại được!... - Thì chỉ đến chết là cùng, chứ gì? Còn hơn ngồi nhà mà chết đói. Thế mày bảo không liều thân đi như thế, thì còn xoay xấp gì để kiếm ra tiền được nữa, nào? Ồ mà đúng như vậy thật. Dần chẳng còn biết đáp sao được nữa. Nó đành lẳng lặng. Câu chuyện ngắt ra vài phút. Trong khi ấy, cả hai đều nghĩ ngợi. Dần bỗng hỏi - Cả chúng con cũng đi à? - Không. Tao hãy đi một mình trước, xem sao. Dần vội kêu lên - Chịu thôi! Chúng con chả dám ở nhà đâu. êm hôm có ba đứa trẻ ranh!... Nó sợ có nắm gạo hay củ ráy, củ khoai cũng không giữ được mà ăn. Nhưng thầy nó bảo - Tao đã liệu chỗ ấy rồi. Vườn đất với các em, tao sẽ nhờ chú Lữ trông nom. Bòn bán thế nào chả đủ cho hai đứa chúng nó ăn. Mà không đủ thì tao đến... Còn nó? Chắc thầy nó lại định cho nó đi ở cho nhà bà chánh Liễu hay nhà nào khác đấy. "Thì cũng được!...". Dần nghĩ vậy. Cái thân nó, nào nó có cần gì? Nhưng nghĩ đến cảnh nhà tan tác mà buồn. Rồi đây bố một nơi, con một nẻo, chị em mỗi đứa nhờ vả một người... Nó đã sắp nói một lời gì để can cha, thì cha đã bảo - Còn mày thì tao cho người ta cưới. Chuyện cưới xin khiến Dần thèn thẹn. Thành thử nó lại không tìm được câu gì để nói. Vẫn người bố nói - Thôi thì trước sau cũng một lần. Có rùi gắng cũng chẳng rùi gắng được bao nhiêu. Mắc cái người ta xin cưới mấy lần rồi. Tao khất mãi để cho hết tang bu mày đã; nhưng người ta nhất định xin lo trước. Chết cái con gái người ta cũng sắp cưới rồi nhà người ta cũng neo người; không cưới mày về thì ngay đứa sai vặt cũng không có nữa. Vả lại chỗ người ta với mình, không lẽ thế nào? Người ta ăn ở phải thì mình cũng phải ăn ở phải, thấy người ta nói mãi, tao cũng nể. Dần tức tối - Nể! Nể cái gì! Thầy cứ bảo rằng mẹ con chết đi rồi, hai em thì còn dại, chỉ có con hơi lớn một tí phải ở nhà để thổi cơm, nấu nước. - Thì tao vẫn bảo người ta thế. Nhưng người ta không chịu. - Không chịu là không chịu thế nào? Quyền còn ở mình... - Thì vẫn là quyền còn ở mình? Cho nên người ta có dám bắt mình đâu? Người ta chỉ cố nài. Người ta nói khó với mình. Tao thề với mày hai ba lần bà ấy không khóc với tao, tao chết! Rồi bà ấy lạy. Bà ấy bảo Thế này này, ông ạ ông cũng khổ, nhưng tôi còn khổ hơn ông, thầy cháu chết đi, tôi chỉ được có mình cháu là con trai, ông cố thương tôi...". Như thế thì tao còn biết từ chối người ta thế nào cho tiện? Rồi thầy Dần nói nhỏ - Mắc cái lúc mẹ mày nằm xuống, nhà không còn một đồng xu nào, không còn vớ víu vào đâu được, tao đã nhận của người ta hai mươi đồng bạc cưới. Ý người ta định đưa tiền trước thế, rồi xin cưới ngay cuối năm, năm ngoái. Tao phải khất. Nhưng không lẽ khất lần người ta mãi? Người ta lại tưởng mình có ý lừa lọc gì người ta chăng. Hôm nọ người ta lại đến xin lần nữa. Họ xin đến tháng giêng... Nhưng từ giờ đến tháng giêng có là bao? ằng nào mày cũng phải đi, mà mày đi thì tao không làm thế nào vừa trông coi các em mày vừa đi làm được. Cho nên tao nhất định mang gửi chúng nó, rồi lên rừng một chuyến. Kiếm ăn được, tao sẽ đem chúng nó đi. ịnh thế, nên tao bảo người ta "Nếu bà nhất định lo, thì tôi cho lo ngay dạo trong năm". Người ta có hỏi tao "Ông đã thương... trước nữa là thương cháu, sau nữa là thương tôi, mà rộng cho như thế, thật cũng là phúc nhà chúng tôi lắm lắm. Tình cảnh nhà tôi, chắc ông cũng chẳng còn lạ gì. Chúng ta cùng là cái chỗ nghèo hèn, thì con cái chúng ta lại làm bạn với nhau. Vậy ông định may vá cho cháu thế nào, ăn tiêu thế nào, thì ông cho chúng tôi biết để chúng tôi lo. Tao nghĩ nát ruột cũng không biết trả lời thế nào cho tiện. Vải giấy như vải giấy năm nay?... Xin ít thì không biết may gì. Chỉ một bộ quần áo cánh vải to cũng phải non ba chục. Mà xin nhiều thì mang tiếng; với lại người ta lấy gì mà đưa cho mình được? Vay công vay nợ lắm vào thì về sau lại chỉ khổ chúng mày. Tao phải bảo người ta muốn may cho mày thế nào thì may lấy, tao không dám nhận. Bà ta bảo "Ta với ta, chẳng nói gì ông cũng rõ cái lúc khó khăn thế này, mười nhà họa mới có một nhà có tiền mà may mặc, còn thì chỉ quần manh, áo vá, đeo dây, quấn rợ; chắc ở nhà ông thì cũng thế, mà nhà tôi thì cũng vậy. May quần chùng áo dài cho cháu, bất quá chỉ mặc một ngày cưới mà thôi, rồi cũng bằng để đấy, cảnh nhà chúng ta thì còn hội hè đình đám gì mà phải sắm quần chùng áo dài kia chứ?... Vậy ông đã dạy thế, thì tôi xin may cho cháu một bộ quần áo vải, quần áo cánh thôi, để cháu nó mặc đi làm ấy; còn hôm cưới, nếu cháu nó chưa có áo chùng, thì tôi xin đưa cái áo chùng của tôi cho nó mặc, cho nó qua cái ngày ấy, kẻo cháu nó là trẻ con nó lại tủi thân chăng. Rồi từ hôm sau mà đi lại cứ quần áo đụp, đem ra mà mặc. Cái áo dài lại cất đi. ấy, nhà có một mẹ, một con, chỉ một cái áo dài là đủ chán! Mẹ đi đâu mẹ mặc; con đi đâu con mặc. Việc may mặc cho cháu thế cũng là tàm tạm được. Còn ý ông định ăn uống thế nào, xin cho biết". Người ta nói thế là có ý hỏi mình có cần cau rượu, tiền nong gì nữa hay không? Tao nghĩ cũng chẳng còn nên xin thêm nữa. Mình cất lấy hai chục đồng bạc của người ta, hơn một năm, có đến năm rưỡi trời rồi. Vả lại còn đang có trở bu mày, cũng nên làm vụng làm trộm, miễn là xong việc thì thôi. Vậy họ đương, anh em, tao nhất định chẳng bảo ai. ằng nhà trai cũng vậy. Bà ấy đã thú thật rằng phải biện năm, ba cỗ thế nào, về đằng họ nhà gái, thì xin biện; chứ đằng họ nhà bà ấy tịnh không mời người nào cả. Bởi việc phải lo thì lo, chứ thật ra một tí gì cũng vào công nợ cả. Công nợ lắm thì về sau chỉ chết chúng mày, chứ chết ai? Vì thế, nên tao bảo Bà ạ, dẫu rằng "Vui thì vui cả triều đình, chẳng vui, vui thể một mình vui chi?". ằng nhà trai, bà còn không muốn bảo ai, thì đằng nhà gái bây giờ đang còn tang mẹ cháu, tôi cũng chẳng bảo ai sất cả. Vậy bà định ngày nào cứ một mình bà với chồng nó đến, tôi cũng chỉ cho hai em nó đưa nó về. Thế cũng xong. Ai cười đến hạng nhà chúng ta? Còn như sự tiền nong... đáng lẽ tôi chẳng nên xin thêm đồng nào nữa mới phải hồi mẹ cháu mất, tôi cất lấy hai chục đồng bạc của bà, là tôi phải nghĩ, nhưng phương ngôn dạy rằng giàu bán chó, khó bán con; tôi cũng còn đồng công, đồng nợ, tất cả độ mười đồng, kể cái sự bắt bà trả cả thì cũng không dám bắt, nhưng tôi xin thêm dăm đồng nữa để trang trải những chỗ tôi vay mượn để lo cho bu cháu, hồi bu cháu mất. Như thế cũng như là tiền của cháu, cháu bỏ ra để trả nghĩa cho bu cháu. Tôi không dám tơ hào gì vào đấy. Ấy là tao cũng nói dối bà ấy thế, chứ công nợ tao cũng chưa trả vội; tao nắm lấy dăm đồng ấy, để ra giêng đi lên rừng... Câu chuyện đêm hôm ấy Dần đang thầm nhắc lại, trong khi đưa đẩy cái chổi cùn trên mặt cái sân con. Bởi vì hôm nay chính là ngày bà mẹ chồng sẽ đến rước Dần đi. êm hôm qua, đợi hai đứa bé ngủ rồi, hai cha con lại thở dài, thở ngắn với nhau. Dần khóc đến quá nửa đêm, rồi thiếp đi lúc nào chẳng biết. Sáng dậy, Dần có cảm tưởng như nó mới chợp mắt đi một tý. Nó thấy người mỏi mệt. Dù vậy, nó cũng chạy ra ngoài quét thóc... Dần quét xong thì ở đằng đông, mặt trời đã nhô lên. Những tia sáng đầu tiên chọc thủng tấm màn sương, rồi xé toạc mãi ra. ánh sáng tràn đi. Trong khoảnh khắc, trở nên quang hẳn... Dần ra ao, rửa mặt. Lúc trở về nhà, nó thấy bố và hai em đã dậy rồi. Hai đứa con, mỗi đứa ôm một đùi cha. Người cha ngồi lử thử, lừ thừ. ôi mi mắt trông có vẻ hơi sưng. Dần cúi mặt, bởi nó đoán rằng đêm hôm qua, cha cũng khóc. Nó vờ tìm cái chổi, tuy nó biết nhà không còn cái chổi nào nữa, ngoài cái nó vừa quét và để ngoài đầu chái... Thầy nó bảo - Hôm nay mày phải xuống chợ một tý đi, con ạ. - Mua bán gì mà đi chợ? - Mua mấy xu chè tươi, với mấy quả cau. Người ta đến, cũng phải có bát nước, miếng trầu tươm tất chứ? - Chào!... Vẽ chuyện! - Sao lại vẽ chuyện? Không có, không coi được. Dần cười tủm tỉm. Thằng em lớn, tỳ một tay lên đùi cha, múa may tay kia và nhún nhảy người, giễu chị - Lêu lêu! Lêu lêu? Có người sắp được đi lấy chồng... Lêu lêu. Dần khoặm mặt, lườm em. Người cha sợ con gái nhìn xấu hổ, củng vào đầu con trai một cái và mắng nó - Im thằng này!... ể cho người ta dặn nó. Mua độ hai xu chè... - Rầy hai xu, hàng chè nó chả bán thì sao... Dần kêu lên thế và cố cười to để cho khỏi thẹn. Người cha cũng cười và hỏi - Hai xu không bán, thì mấy xu mới bán? - Ít nhất là năm xu. Mua ít nó không có tiền trả lại. - Thì mua cả năm xu vậy. Năm xu thì nấu được mấy ấm? - Một ngàn ấm... Ông lão cả đời không đi chợ, cứ tưởng chè rẻ lắm. Quen với ngày xưa, độ một xu một ấm bây giờ năm xu, nấu đặc chỉ được một ấm là hết xoắn. Thầy Dần lè lưỡi ra - Èo! Mẹ ơi! - Thật... Không có thế, cứ cổ con mà chặt? Muốn mua thì mua, chẳng mua thì đừng, chứ cái sự đắt thì ngang ngang với nhân sâm. - ắt thì cũng phải mua. Năm xu chè, với hai quả cau ngon ngon một tý. - Cau ngon phải tám, chín xu một quả. - Vị chi đi ba xu một miếng trầu? - úng thế, không kém ba xu một miếng. - Trời đất ạ!... Có đời nào như vậy? Cái thổ tả gì cũng đắt!... cho nên tao vẫn bảo Cái lúc này chẳng nên giở giang ra làm gì. Mọi đồng mọi tốn. Giá làm độ mươi lăm cỗ, chắc mất đến năm chục bạc. Miếng bùi chui qua cổ; mình ăn một bữa có no được bằng đời đâu, mà người ta phải chạy cỗ cho họ đương nhà mình thì khổ. Thà bất nhược là ta chước hết?... - Ấy thầy thì chỉ thế... Cái gì cũng chước! Thành thử ra con mình chỉ theo không. - Theo không cũng được. Mẹ mày ngày xưa cũng chỉ theo không tao đấy. Thế mà cũng ăn ở với nhau được mãi, sinh con đẻ cái, mà lại còn thương yêu nhau bằng tám những cặp vợ chồng cưới linh đình. Mẹ kiếp! Lắm đám cưới linh đình, mà rồi lại chả bỏ nhau ùn ùn ra đấy à? Dần lại cười tủm tỉm. Bởi nhắc đến vợ, thầy nó bỗng nhớ ra một điều... - Tý nữa quên! Con nhớ mua mấy nén hương... Hôm nay là ngày cưới con, cỗ bàn đã chả có thì thôi, mấy nén hương cũng không có nốt thì phải tội... Cái ý ấy - sự nhớ tưởng đến người đã khuất - khiến cả hai bố con cùng buồn bã. Mắt rơm rớm nước, thầy nó thở dài rồi bùi ngùi bảo - Biết vậy, tao cũng bảo bà ấy biện một mâm để cúng bu mày. Người sống, chẳng có thì thôi, nhưng người chết... Dần thổn thức. Nó sợ còn đứng đấy thì nó sẽ khóc òa lên mất. Nó cố bảo - "Thôi! Con đi chợ..." rồi chạy ra. Ra đến sân nó mới nghe thấy thầy nó bảo - Ừ con đi. Xế chiều hôm ấy, bà mẹ chồng và chồng Dần mới đến. Cả hai cùng mặc quần áo cánh. Bà mẹ khoác một cái áo nâu dài đã bạc ở trên vai. Chú rể xách một chẽ cau, chừng một chục quả. Vào đến nhà, y lúng túng không biết đặt đâu. Bà mẹ trông thấy bảo Dần - Cho bu mượn cái đĩa đi, con! Mặt Dần đã đỏ bừng. Hai đứa em nó, trông thấy, cười rúc rích. Nó lợi dụng câu sai của mẹ chồng, để chạy tót ra chái đứng. Một lúc lâu nó cũng không vào. Thầy nó phải đỡ lấy chỗ cau ở tay bà mẹ chồng, đặt lên giường thờ mẹ nó. Rồi thầy nó nói thật to - i nấu nước đi con! Không thấy con gái thưa, ông phải bảo thằng con trai lớn - Chạy ra bảo chị đun ấm nước. Rồi ông thân hành đi lấy chìa vôi ra để têm trầu. Bà mẹ chồng có lời ngay - Thưa ông, ông đã có lòng thương đến cháu, mà xét ra, như thế này thì thật ông thương quá, thương mọi nhẽ, cái gì ông cũng châm chước đi cho cả, khiến chúng tôi cảm tạ cái bụng ông mà lại lấy làm xấu hổ về cái cách chúng tôi xử lắm. Chúng tôi xử thế này thật quả là không phải. Nhưng lạy Trời, lạy ất!... Chúng tôi cũng muốn nghĩ thế nào kia nhưng ông trời ông ấy chỉ cho nghĩ đến thế thôi, thì cũng phải rầu lòng mà chín bỏ làm mười, chứ như ông thì thật một bỏ làm mười, mà không được một cũng bỏ làm mười. Có vậy thì công việc của cháu mới xong xuôi được. Giá phải bố vợ như bố vợ nhà khác, nhất nhất cái gì cũng bắt đủ lề lối, thì nhà như nhà chúng tôi lấy gì mà lo được? ít là cháu suốt đời không có vợ. Nhưng phúc làm sao, lại gặp được ông bố vợ thương con rể như ông, thì có phải ông trời ông ấy cũng còn thương nhà chúng tôi lắm lắm không? Thôi thì bây giờ mọi sự ông đã thương cho cháu cả rồi, hôm nay tiện được ngày, tôi cũng biện cơi trầu đến kêu với ông để ông cho cháu được lễ các cụ - trước là lễ gia tiên, sau là lễ bác nhà ta, sau nữa ông lại cho cháu lễ sống ông, chẳng có tiền bạc gạo lợn, hay mâm cao cỗ đầy thì cũng phải lấy đầu làm lễ gọi là chút lòng thành của con, cháu các cụ - rồi xin phép ông để chúng tôi đưa cháu về nhà làm ăn. áp lại bao nhiêu lời bóng bẩy, xa xôi ấy, ông bố vợ chỉ trả lời gọn thon lỏn một câu - Vâng! Mời bà cứ ngồi chơi thư thả xơi nước, xơi trầu đã. Rồi ông lại cất cao giọng, bảo con - Hễ được nước thì bắc lên đây, con nhé! Rồi ông ngồi lử thử. Bởi vì ông buồn lắm. Chỉ lát nữa là người ta rước Dần đi. êm hôm nay, chỉ còn mình ông với hai đứa trẻ con. Nhà sẽ vắng ngắt vắng ngơ, chẳng khác gì ngày vợ ông mới chết đi. Rồi chỉ mươi bữa, nửa tháng là ông đã phải bỏ nốt hai đứa con trai để ngược... Chao ôi! Buồn biết mấy?... Ông đờ đẫn cả người. Ông nghĩ bụng rằng giá Dần không phải về nhà người ta, thì có lẽ chẳng đời nào ông phải lên rừng; ông cứ ở nhà với ba con, bố con đùm bọc lấy nhau, bây giờ bỏ lại hai đứa bé mà đi, ông thương chúng nó quá... A thì ra ông phải đi nơi khác làm ăn, chẳng phải vì cớ gì khác mà chỉ vì Dần phải đi lấy chồng, Dần đi lấy chồng, không ai trông coi vườn đất, nhà cửa, con cái cho ông nữa... Ông buồn quá. Ông đáp lại những câu rất dài dòng của bà thông gia bằng những câu ngắn ngủn. Bà thông gia, trái lại nhiều lời lắm. Bà vui vẻ. Bà nói luôn. Bởi tài ăn nói của người ta, một đời mới có dịp dùng đến độ vài lần. Bà thì chỉ một lần thôi, bởi vì bà có mỗi một mống con trai. Lấy một con vợ cho con, có dễ đâu? Nhất là mình lại không có nhiều tiền. Công việc phải qua mấy mươi nấc, mấy mươi cầu. Chưa cưới được vợ về cho con, thì còn là đi lại mỏi chân, van ông lạy bà sái hàm răng... Công việc của bà, mười phần xong đến chín phần rồi. Còn một tý chút nữa mà thôi. Tội gì không ngọt ngào với người ta cho yên ổn cả. Người ta gả con gái, đã chẳng được gì thì cũng phải được lời nói mát lòng, mát ruột cho hả dạ... ến tối, đám cưới mới ra đi. Vẻn vẹn có sáu người, cả nhà gái nhà trai. Ông bố vợ đã tưởng không đi. Nhưng bà mẹ chồng cố mời. Vả lại nếu ông không đi, thì hai đứa bé cũng không thể đi mà Dần thì đang khóc lóc. Nếu chỉ có mình nó ra đi thì có lẽ nó cũng không chịu nốt. Ông đành kéo mấy cành rào lấp ngõ rồi đi vậy. Dần không chịu mặc cái áo dài của bà mẹ chồng đưa, thành thử lại chính bà khoác cái áo ấy trên vai. Dần mặc những áo vải ngày thường nghĩa là một cái quần cồng cộc xẫng và đụp những miếng vá thật to, một cái áo cánh nâu bạc phếch và cũng vá nhiều chỗ lắm, một bên tay rách quá, đã xé cụt gần đến nách. Nó sụt sịt khóc, đi bên cạnh mẹ chồng. Chú rể dắt đứa em lớn của Dần. Còn thằng bé thì ông bố cõng. Cả bọn đi lủi thủi trong sương lạnh và bóng tối như một gia đình xẩm lẳng lặng dắt díu nhau đi tìm chỗ ngủ... ến nhà trai, bà mẹ chồng mời bố Dần uống nước ăn trầu. Rồi bà giết một con gà, dọn cho ba bố con ông một mâm cơm. Dần vừa thẹn vừa buồn không chịu ngồi ăn. Ba bố con lặng lẽ ăn. Người cha ăn có vài lượt cơm, rồi buông bát đĩa, ngồi xỉa răng đợi cho hai đứa con ăn. Ông thúc chúng ăn nhanh lên, rồi còn về kẻo khuya. Thằng lớn và cơm phùng mồm ra, bị nghẹn mấy lần. Khi cả hai con đã thôi cơm, ông cho chúng nó uống nước rồi đứng lên, chào bà mẹ chồng Dần để ra về. Ông dắt thằng lớn và cõng thằng bé trên lưng. Dần đứng đợi cha ở ngoài sân. Nó vẫn còn dụi mắt. Người cha ái ngại, đứng lại nhìn con một thoáng rồi âu yếm bảo - Thôi! Thầy cho em về nhé. Dần khóc nấc lên. Hai đứa em không còn chế nhạo nữa. Thằng lớn chực khóc. Thằng bé ngây mặt ra vì không hiểu sao cả. Người cha mắng yêu con - Mẹ chúng mày!... Bà mẹ chồng thấy Dần khóc quá, chạy ra. Bố Dần vội bước đi. Dần chạy theo cha, nức nở - Thầy!... Thầy... - Mẹ mày!... nín đi cho thầy về. - Thầy đừng... đi... lên rừng! Người cha thấy lòng thổn thức và đáp liều - Ừ, thì thôi... Mẹ mày! ← Nghèo→ Trăng sáng Một đám cưới gồm sáu người lủi thủi đi trong sương lạnh và bóng tối như một gia đình xẩm lẳng lặng dắt díu nhau đi tìm chỗ ngủ... Một đám cưới vẻn vẹn có hai người bước trên con đường về xóm ngụ cư tồi tàn, trong cái cảnh tối sầm vì đói khát, giữa không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người... Hai đám cưới tựa như hai bức tranh minh họa cho cái vụ đói khủng khiếp diễn ra ở miền Bắc nước ta hồi tháng 3/ 1945. Tuy có những mảng màu sáng tối khác nhau nhưng cả hai đều được vẽ nên từ chất liệu hiện thực cuộc đời và tinh thần nhân đạo đậm nét. Nam Cao và Kim Lân đã để lại cho chúng ta hai "đám cưới" thật đặc sắc và cảm động. Trong cuộc sống, có những sự kiện đặc thù giúp chúng ta nhìn rõ hoàn cảnh xã hội. Đám cưới là một sự kiện như vậy. Đây là cảnh tượng biểu hiện rất tập trung trạng thái nhân thế, phong hóa xã hội; là sự kiện vui nhất của một đời người. Ây vậy mà hai đám cưới ở đây được miêu tả khác hẳn. Bao trùm lên tất cả là một không khí buồn bã, ảm đạm và những giọt nước mắt. Đó là nét chung đầu tiên mà người đọc cảm nhận được qua "Một đám cưới" Nam Cao và "Vợ nhặt" Kim Lân. Nam Cao viết "Một đám cưới" năm 1944, khi mà cái đói mon men tới gần, len lách vào từng ngõ nhỏ cuộc đời những người dân lao động, vốn đã cơ cực, triền miên trong bần cùng khốn khó, nay họ lại lao đao trước vực thẳm của sự đói nghèo. Qua đám cưới của Dần, một cô bé mới 14, 15 tuổi, tác giả đã tái hiện một cách rất chân thực không khí của những ngày đói kém. Còn Kim Lân, qua câu chuyện anh cu Tràng "nhặt" được vợ cũng góp phần làm sinh động hơn vụ đói khủng khiếp ấy. Cả hai tác phẩm đều thuộc dòng văn học hiện thực, đối tượng mà Nam Cao và Kim Lân miêu tả đều là những người dân lao động lam lũ trong những làng quê nghèo khó. Điều đó cũng dễ hiểu. Bởi lẽ nạn đói lan đến đâu thì người khổ nhất, đói nhất vẫn là những người dân ấy. Đặc biệt, cả hai tác giả đều nhân sự kiện "cưới chạy đói" ở nông thôn thời ấy để phản ánh hiện thực. Có lẽ chính vì vậy mà giá trị hiện thực, nhân đạo của tác phẩm càng trở nên sâu sắc. Cả hai tác phẩm đều mang cái không khí ảm đạm, buồn thảm của đói kém nhưng lại có cái ấm áp của tình yêu thương đùm bọc trong một gia đình nông dân nghèo, của sự chia sẻ, cảm thông giữa những người khốn khổ trong cơn bĩ cực. Có ngẫu nhiên chăng khi người khốn khổ trong cơn bĩ cực. Có ngẫu nhiên chăng khi người chồng của Dần Một đám cưới và người vợ của Tràng Vợ nhặt đều là những nhân vật không tên? Phải chăng đó đều là dụng ý nghệ thuật của tác giả. Tuy có nhiều điểm chung nhưng hai tác phẩm cũng thể hiện những nét khác biệt. Đám cưới của Dần dâu sao cũng có vẻ "sang" hơn đám cưới của Tràng. Cô bé ấy được cưới xin cẩn thận. Còn Tràng, chỉ vài câu bông đùa, mấy bát bánh đúc thế mà tự nhiên có vợ. Truyẹn ngắn của Kim Lân hấp dẫn người đọc có lẽ cũng bởi tình huống truyện độc đáo ấy. Nhưng người đọc đều nhận thấy cả hai kiểu "nên vợ nên chồng" ấy đều toát lên cái nghèo khó, thảm hại. Đám cưới của Dần, đầy đủ hơn nhưng vẫn phô bày nguyên trạng một đám cưới chạy đói. "Chú rể xách một chẽ cau chừng một chục quả, bà mẹ khoác cái áo nâu dài đã bạc ở trên vai.. Dần mặc những áo vắi' ngày thường nghĩa là một cái quần cồng cộc xẫng và đụp những miếng vá thật to, một cái áo cánh nâu bạc phếch va cũng vá nhiễu chỗ lắm, một bên tay rách quá, đã xé cụt gần đến nách". Còn vợ Tràng "cắp cái thúng con đầu hơi cúi xuống", cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt". Một đám cưới đi trong đêm sương lạnh, một đám cưới về trong chiều tàn u uất, ảm đạm. Dù là ngòi bút của Nam Cao hay Kim Lân cũng có những đoạn văn ám ảnh về cái đói lan tràn. "Dưới những gốc đa, góc gạo xù xì bóng người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma. Tiếng quạ trên mấy cây gạb ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết". Khung cảnh ấy khiến ta không thể không liên tưởng đến ý nghĩ lễ rước dâu của Tràng đang diễn ra bên cạnh những bóng ma đói vật vờ. Cái đói đang gặm nhấm những con người ở xóm ngụ cư tồi tàn. Những cuộc đời mỏi mòn đang sống dật dờ bên lề số phận như một quá trình chết mòn. Họ đợi chờ một cái chết dần dần như ngọn lửa ăn từ từ vào thân nến. Nam Cao cứ nhẩn nha miêu tả cái đói. "Cuộc sống mỗi ngày một khó thêm. Gạo kém, thóc cao. Ngô, khoai cũng khó chuốc được mà ăn. Thậm chí đến hạt muối cũng sinh ra hiếm nốt..". Đằng sau những lời văn tưởng như sắc lạnh ấy là một tâm hồn tràn ngập lòng thương cảm của tác giả. Bữa cơm cưới của Dần diễn ra âm thầm, trong một không khí nặng nề, buồn bã. "Ba bố con lặng lẽ ăn. Người cha ăn vài lượt cơm, rồi buông bát đũa.. Thằng lớn và cơm phùng mồm ra bị nghẹn mấy lần". Bữa cơm của gia đình Tràng diễn ra còn thảm hại hơn nhiều. "Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối và đĩa muối ăn với cháo". Món "chè khoán" của bà cụ Tứ khiến cho cảm giác buồn tủi, cay đắng trong gia đình tăng thêm "miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ. Bữa cơm từ đấy không ai nói câu gì, họ cắm đầu ăn cho xong, tránh nhìn mặt nhau. Một nỗi tủi hờn len vào tâm trí mọi người". Dần đi lấy chồng và có lẽ cô bé hiểu được vì sao phải làm thế. Tràng có vợ mà vẫn chưa hết ngạc nhiên. Hai bà mẹ trong hai tác phẩm thì hoàn toàn khác nhau. Mẹ chồng Dần nhanh nhảu, khéo ăn khéo nói, với suy nghĩ phải khôn ngoan làm sao cho được việc. "Tài ăn nói của người ta, một đời mới có dịp dùng đến đọ vài lần... công việc của bà, mười phần đã xong đến chín phần rồi. Còn một tí chút nữa mà thôi. Tội gì không ngọt ngào với người ta cho yên ổn cả". Ngược lại, bà cụ Tứ sau cái giây phút ngỡ ngàng thì tràn ngập tình thương đối với đôi vợ chồng mới. Bà không mau mồm mau miệng, bà rất kiệm lời nhưng người đọc lại dành cho bà một tình cảm lớn. Đọc "Một đám cưới", người đọc lại bắt gặp những giọt nước mắt. Từ hình ảnh Dần "khóc hu hu" khi về thăm nhà, "khóc đến quá nửa đêm" khi biết phải đi lấy chồng đến khi "khóc nấc lên" lúc phải xa cha. Trong tác phẩm còn có những giọt nước mắt thổn thức rơi trong lòng người bố. "Vợ nhặt" có xen cả những tiếng cười. Ngoài dòng nước mắt thương con, tủi phận của bà cụ Tứ, tiếng hờ khóc tỉ tê, câu chuyện dường như tươi sáng hơn nhờ những tiếng cười. Đó là tiếng "reo cười" của bọn trẻ con, "cười hềnh hệch" của Tràng, nhưng cũng đủ làm "cái xóm ngụ cư ấy mỗi chiều lại xôn xao lên được một lúc". Chi tiết này làm chúng ta nhớ đến cái xôn xao của phố huyện mỗi lần chuyên tàu đêm chạy qua trong truyện ngắn "Hai đứa trẻ" Thạch Lam. Tiếng cười "rung rúc" của người dân xóm chợ, tiếng "cười khanh khách" của Tràng, cái cười "đon đả" của mẹ Tràng... Tất cả những chi tiết Kim Lân miêu tả tiếng cười trong truyện làm cho không khí của "Vợ nhặt" đỡ u ám hơn "Một đám cưới". Chính điều này cũng làm cho chủ đề hai tác phẩm có những nét khác biệt. Đọc "Một đám cưới" của Nam Cao, bên cạnh bức tranh hiện thực xám xịt là một tấm lòng trong trẻo, hiếu thảo của Dần. Mới 14, 15 tuổi, cô bé ấy đã quán xuyến, xếp đặt công việc nhà cửa rất chu đáo. Ta như được gặp lại cô bé Liên đảm đang, chịu khó Hai đứa trẻ. Không chỉ có thế, qua each nói chuyện với bố, ta còn nhận thấy một tâm hồn nhạy cảm, một nếp suy nghĩ "già" hơn tuổi của nó rất nhiều. Phải chăng cũng như Liên, Dần là một trái cây chín sớm bởi nắng gió cuộc đời. Yêu thương, hiếu thảo với cha mẹ, Dần đi ở từ năm mười hai. Chi tiết ấy còn gợi lại cho chúng ta hình ảnh cái Tí Tắt đèn lúc bị bán cho nhà Nghị Quế. Cũng vì thương cha và các em, Dần đi lấy chông. Dân được Nam,Cao miêu tả khóc nhiều lần, nhưng có lẽ chỉ một lần Dân khóc cho mình. Ay là khi cô bé "khóc hu hu" đòi ở nhà chịu khổ chứ không ở cho nhà bà Chánh nữa, khi ấy Dần mới mười hai tuổi. Cho đến tận lúc ta nghe thấy tiếng nức nở cuối cùng của Dần "Thầy đừng... đi... lên rừng", ta chợt hiểu thêm tấm lòng của cô bé ấy. Tất cả những lần khóc sau nàỵ, cô cũng chỉ nghĩ đến thương cha, thương em mà thôi. Nam Cao đã khắc họa rất thành công vẻ đẹp tâm hồn trong sáng, giản dị, đức hi sinh thâm lặng, cao đẹp của cô bé. "Vợ nhặt" của Kim Lân mang một chủ đề khác. Cũng trên cái nền hiện thực xanh xám, lởn vởn những bóng ma, giữa bầu không khí tưởng như ngạt thở ấy là một khát vọng vươn lên sống, khát khao hạnh phúc, vươn lên trên cái chết, cái thảm đạm để mà vui, mà hi vọng. Ta cũng nhận thấy bầu không khí của chuyện khi chùng khi giãn, xen kẽ buồn vui. Giữa cái đói đang giằng xé, những người dân xóm chợ vẫn có giây phút "khuôn mặt hốc hác u tối của họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên. Có cái gì lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối ấy của họ". Thì ra họ vẫn còn yêu cuộc đời lắm. Có yêu cuộc đời họ mới "bàn tán" trước cảnh Tràng đi với cô "vợ nhặt". Họ vẫn còn quan tâm đến cuộc sống của người khác dù sau tiếng cười vui, hiẹn thực lại xuất hiện trong mắt họ "Biết có nuôi nhau sống qua được cái thì này không?" Và họ nín lặng. Nhưng ta tin vào khát vọng sống của họ biết bao. Trong gia đình Tràng cũng có những lúc không khí "co giãn" như thế. Sau cái buổi tối kết thúc bằng tiếng hờ khóc ngoài xóm vào tỉ tê lúc to lúc nhỏ, thì sáng hôm sau Tràng tiếp xúc với bầu không khí khác hẳn. Trước mắt anh ta là một "cảnh tượng thật đơn giản, bình thường" mà "lại rất thấm thìa cảm động" để rồi bông nhiên nhen nhóm trong Tràng tình cảm yêu thương gắn bó với gia đình. Giữa cái nạn đói - cái nạn đói mà lịch sử nước ta co lẽ chẳng thể nào quên ấy - có được những tia sáng của hi vọng và niềm tin vào cuộc đời như vậy thật đáng trân trọng. Trước cách mạng, Nam Cao chưa có cái nhìn tươi sáng như thế. Kết thúc của câu truyện "Một đám cưới" để lại cho người đọc những dòng suy nghĩ không dứt, những câu hỏi xung quanh cái kết mà như mở ấy. Rồi Dần sẽ sống ra sao? Bố Dần có lẽ vẫn quyết định lên rừng một chuyến? Số phận của những đứa em Dần liệu có sang sủa lên không? Kim Lân thì khác. Cái kết của "Vợ nhặt" để lại một niềm tin rằng Tràng rồi cũng sẽ tham gia vào đoàn người phá kho thóc Nhật. "Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đội và lá cờ đỏ bay phấp phới...". Hình ảnh lá cờ đo trong đầu Tràng tựa như một nguồn sáng tỏa ấm, phá vỡ cái bầu không khí thảm đạm, tưởng như bế tắc của cuộc sống. Đến một người như Tràng - một người tưởng như chả suy ngẫm gì nhiều - mà còn có được suy nghĩ như thế thì chắc chắn những người dân xóm chợ cũng ý thức được điều đó. Cả Nam Cao và Kim Lân đều có chung một kiểu kết cấu truyện. Mở đầu là không gian của hiện tại và xen giữa hiện tại là các khoảng hồi tưởng về quá khứ rồi kết thúc ở hiện tại. Điều này rất thường gặp ở những truyện ngắn của Nam Cao. Mặc dù "Một đám cưới" mở ra lúc trời chưa sáng "còn tối om" hay "Vợ nhặt" bắt đầu vào chập tối "lúc chạng vạng mặt người" thì hai khoảnh khắc ấy dường như rất gần nhau. Cái thê thảm, nhợt nhạt của cuộc sống đói quay đói quắt càng được nổi rõ qua màu thời gian nhờ nhờ, tôi tối ấy. Tuy nhiên, Nam Cao khép câu chuyện lại trong một không gian tối, còn Kim Lân kết thúc ở khoảng sáng của một ngày mới. Tính về thời gian, hai chuyện diễn ra trong hai khoảng thời gian gần như bằng nhau. Tuy nhiên chính cách chọn thời điểm để mở và kết truyện cũng góp phần thể hiện chủ đề của tác phẩm. Thế là đã có hai đôi "nên vợ nên chồng". Một người vì thương cha, thương em mà lấy chồng. Một người vì thương thân, vì miếng ăn mà cũng liều nhắm mắt sàng ngang. Cả hai đám cưới đều là để chạy đói, để duy trì sự sống. Chọn sự kiện này, Nam Cao và Kim Lân đã phản ánh rất chân thực về cái đói, về cuộc sống khốn khó của những người dân. Tuy nhiên nếu chỉ xét ở khía cạnh ấy thì thật khập khiễng. Có lẽ cái cốt yếu chung nhất của hai tác phẩm là cái gốc nhân đạo cao cả và sâu sắc của các tác giả. Cuộc đời của Dần coi như đã định sẵn nhưng còn lại trong ấn tượng của người đọc không phải là một đám cưới buồn lặng, sầu tủi. Ân tượng in đậm nhất vẫn là tấm lòng hiếu thảo của một cô bé thông minh, chịu khó. Người con gái không tên kia dẫu có vì miếng ăn mà lấy chồng thì ta cũng không trách thị. Bởi còn lại trong ta không phải là sự u ám, xác xơ, heo hút, điêu tàn của xóm ngụ cư mà là không khí đầm ấm, đùm bọc, yêu thương lẫn nhau. Đặc biệt là khát vọng sống mãnh liệt vươn lên trong mỗi người dân lao động nơi đây. Dù có những nét tương đồng và khác biệt, dù là cách diễn đạt này hay diễn đạt kia thì Nam Cao và Kim Lân vẫn xuất phát từ một điểm chung nhân đạo. Chẳng phải thế sao? Ca ngợi, trân trọng những phẩm chất tốt đẹp ở con người cũng là nhân đạo. Phản ánh hiện thực cũng bắt nguồn từ nhân đạo. Nói lên khát vọng, mơ ước cao đẹp của con người là gì nếu không phải từ lòng nhân đạo? Chính vì thế, nhìn từ góc độ này ta thấy nó giống nhau, nhìn từ góc độ kia ta lại thấy hoàn toàn khác. Cái chung là từ những cái riêng. Riêng và chung, tương đồng và khác biệt nhiều khi là một. Cho nên, không đúng và cũng thật khó khăn nếu có ai đó định tìm sự hơn hẳn của tác phẩm này với tác phẩm kia. Chúng ta cần phải công nhận rằng đó là hai bức tranh rất độc đáo, đặc sắc và tiêu biểu cho nền văn học hiện thực lúc bấy giờ. Đọc "Một đám cưới" của Nam Cao và "Vợ nhặt" của Kim Lân tôi chợt nhớ đến một câu nói của Lỗ Tấn trong tác phẩm Cố hương "Trên thế giới này vốn làm gì có đường mòn. Người ta đi mãi thì thành đường thôi...". Quả đúng như thế. Nam Cao và Kim Lân cũng đều đi trên một con đường mà thôi - con đường được xây nên bằng mối quan hệ hiện thực và nhân đạo. Chỉ có điều mỗi nhà văn có cách đi riêng của mình và họ đã bước những bước chân không trùng nhau. Tài liệu "Truyện ngắn Một Đám cưới Nam Cao" có mã là 449619, file định dạng doc, có 8 trang, dung lượng file 75 kb. Tài liệu thuộc chuyên mục Tài liệu phổ thông > Ngữ văn > Ngữ Văn Lớp 11. Tài liệu thuộc loại ĐồngNội dung Truyện ngắn Một Đám cưới Nam CaoTrước khi tải bạn có thể xem qua phần preview bên dưới. Hệ thống tự động lấy ngẫu nhiên 20% các trang trong tài liệu Truyện ngắn Một Đám cưới Nam Cao để tạo dạng ảnh để hiện thị ra. Ảnh hiển thị dưới dạng slide nên bạn thực hiện chuyển slide để xem hết các lưu ý là do hiển thị ngẫu nhiên nên có thể thấy ngắt quãng một số trang, nhưng trong nội dung file tải về sẽ đầy đủ 8 trang. Chúng tôi khuyễn khích bạn nên xem kỹ phần preview này để chắc chắn đây là tài liệu bạn cần preview Truyện ngắn Một Đám cưới Nam CaoNếu bạn đang xem trên máy tính thì bạn có thể click vào phần ảnh nhỏ phía bên dưới hoặc cũng có thể click vào mũi bên sang trái, sang phải để chuyển nội dung sử dụng điện thoại thì bạn chỉ việc dùng ngón tay gạt sang trái, sang phải để chuyển nội dung slide. Click vào nút bên dưới để xem qua nội dung tài liệu Truyện ngắn Một Đám cưới Nam Cao sử dụng font chữ gì?File sử dụng loại font chữ cơ bản và thông dụng nhất Unicode hoặc là TCVN3. Nếu là font Unicode thì thường máy tính của bạn đã có đủ bộ font này nên bạn sẽ xem được bình thường. Kiểu chữ hay sử dụng của loại font này là Times New Roman. Nếu tài liệu Truyện ngắn Một Đám cưới Nam Cao sử dụng font chữ TCVN3, khi bạn mở lên mà thấy lỗi chữ thì chứng tỏ máy bạn thiếu font chữ này. Bạn thực hiện tải font chữ về máy để đọc được nội thống cung cấp cho bạn bộ cài cập nhật gần như tất cả các font chữ cần thiết, bạn thực hiện tải về và cài đặt theo hướng dẫn rất đơn giản. Link tải bộ cài này ngay phía bên phải nếu bạn sử dụng máy tính hoặc phía dưới nội dung này nếu bạn sử dụng điện thoại. Bạn có thể chuyển font chữ từ Unicode sang TCVN3 hoặc ngược lại bằng cách copy toàn bộ nội dung trong file Truyện ngắn Một Đám cưới Nam Cao vào bộ nhớ đệm và sử dụng chức năng chuyển mã của phần mềm gõ tiếng việt Unikey. Từ khóa và cách tìm các tài liệu liên quan đến Truyện ngắn Một Đám cưới Nam CaoTrên Kho Tri Thức Số, với mỗi từ khóa, chủ đề bạn có thể tìm được rất nhiều tài liệu. Bạn có thể tham khảo hướng dẫn sau đây để tìm được tài liệu phù hợp nhất với bạn. Hệ thống đưa ra gợi ý những từ khóa cho kết quả nhiều nhất là Truyện ngắn Một Đám, hoặc là Truyện ngắn Một Đám tìm được nội dung có tiêu đề chính xác nhất bạn có thể sử dụng Truyện ngắn Một Đám cưới có thể gõ có dấu hoặc không dấu như Truyen ngan Mot Dam, Truyen ngan Mot Dam cuoi, Truyen ngan Mot Dam cuoi Nam, đều cho ra kết quả chính xác. Truyện ngắn Một Đám cưới Truyện ngắn Truyện ngắn Một Truyện ngắn Một Đám cưới Nam Nam cưới Một Cao Đám ngắn Truyện ngắn Truyện ngắn Một Đám Truyện Một Đám cưới Nam Các chức năng trên hệ thống được hướng dẫn đầy đủ và chi tiết nhất qua các video. Bạn click vào nút bên dưới để xem. Có thể tài liệu Truyện ngắn Một Đám cưới Nam Cao sử dụng nhiều loại font chữ mà máy tính bạn chưa có. Bạn click vào nút bên dưới để tải chương trình cài đặt bộ font chữ đầy đủ nhất cho bạn. Nếu phần nội dung, hình ảnh ,... trong tài liệu Truyện ngắn Một Đám cưới Nam Cao có liên quan đến vi phạm bản quyền, bạn vui lòng click bên dưới báo cho chúng tôi biết. Gợi ý liên quan "Truyện ngắn Một Đám cưới Nam Cao" Click xem thêm tài liệu gần giống Chuyên mục chứa tài liệu "Truyện ngắn Một Đám cưới Nam Cao" Tài liệu vừa xem Truyện ngắn Một Đám Truyện ngắn Một Đám cưới Nam Truyện ngắn Một Truyện ngắn Một Đám cưới Truyện ngắn

một đám cưới nam cao